Nguyễn Văn Phương
Tiến sĩ Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự, Bộ Quốc phòng
Nửa thế kỷ trôi qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Nội dung bản Di chúc không chỉ là những lời tâm huyết, sâu lắng, tràn đầy yêu thương và trách nhiệm của Người đối với đất nước, dân tộc mà còn chứa đựng giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với con đường và công cuộc đổi mới của cách mạng Việt Nam ngày nay.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Di sản vô giá, ngọn đuốc cho cách mạng Việt Nam
Năm mươi năm trước, sau khi đã “hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”, trước lúc đi xa, để “Đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta bản Di chúc thiêng liêng, đó là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân, một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Những lời căn dặn cuối cùng của Người là những tình cảm và niềm tin của Người đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
Bản Di chúc là sự tổng kết sâu sắc suốt chặng đường đấu tranh để đi đến thắng lợi vô cùng vẻ vang của cách mạng Việt Nam; đồng thời, vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước. Di chúc ấy là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, nguồn sức mạnh để động viên, cổ vũ nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, thực hiện mục tiêu cao cả: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Người tìm ra, suốt đời phấn đấu, hy sinh để thực hiện mục tiêu đã được xác định.
Thực hiện Di chúc của Người, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, bằng bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, kết hợp và phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, viết nên bản hùng ca vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, Di chúc thiêng liêng của Người vẫn là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối cho công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã và đang tiến hành là cuộc đổi mới được thực hiện dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới được bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chỉ là sự tiếp tục tất yếu của toàn bộ sự nghiệp đổi mới lâu dài mà Đảng, nhân dân ta tiến hành dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hoài bão và mong muốn tột bậc của Người từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến phút cuối cùng trước khi về cõi vĩnh hằng là: Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người căn dặn: Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Mục tiêu của cách mạng được Người khái quát hết sức rõ ràng và bình dị mà ai cũng có thể hiểu được và phấn đấu để thực hiện. Nhưng để xác định được những điều đó, Người phải rời xa Tổ quốc thân yêu, bôn ba khắp năm châu, bốn biển suốt 30 năm. Ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, giữa đêm dài nô lệ, dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, đã có nhiều sĩ phu, văn thân, chí sĩ yêu nước xả thân vì dân, vì nước và ra đi để tìm đường cứu dân, cứu nước. Song duy nhất chỉ có Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Đó là, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đó ánh sáng soi đường cứu dân, cứu nước… như Người đã khẳng định sau khi được đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Rõ hơn, muốn giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội. Kể từ đó, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu và sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - Chân lý của tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới
Lịch sử dân tộc ta là lịch sử đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc. Qua hàng ngàn năm, các thế hệ người Việt Nam đã nối tiếp nhau chiến đấu cho nền độc lập, tự do của nhau chiến đấu cho nền độc lập, tự do của dân tộc. Có thể nói, chưa có một dân tộc nào trên thế giới như dân tộc Việt Nam lại phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh, trong đó có các cuộc chiến tranh phải chống lại các thế lực xâm lược hung hãn nhất, hùng mạnh nhất của thời đại để giành độc lập, tự do. Chính vì thế, hơn ai hết nhân dân Việt Nam là người thấu hiểu giá trị của độc lập, tự do, hòa bình. Từ thực tiễn chống ngoại xâm, ông cha ta đã đúc kết được nhiều bài học và kinh nghiệm quý báu. Trí tuệ đánh giặc giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam. Hồ Chí Minh đã mang theo trí tuệ đó trong hành trình tìm đường cứu nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là sự kết hợp tinh hoa của dân tộc với trí tuệ của thời đại, là học thuyết Mác - Lênin và thực tiễn của cả cuộc đời đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng cao thượng, phong phú và sáng tạo của Người cho độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Vì vậy, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” do Người tổng kết không chỉ là chân lý cho dân tộc Việt Nam mà còn là chân lý cho tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Nó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc trong thời đại ngày nay. Chân lý đó được các dân tộc trên thế giới thừa nhận như một lẽ tự nhiên, không ai có thể bác bỏ. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là bước phát triển mới của học thuyết Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở các dân tộc thuộc địa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có sự gắn bó thống nhất: Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn bó này vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng loài người khỏi áp bức, bóc lột. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là vì con người, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân và xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công giữa người với người. Bởi vì, nếu xóa bỏ áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Theo Người, độc lập, thống nhất của Tổ quốc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người nhiều lần nhắc nhở: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Người mong muốn: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”. Đó không chỉ là lời động viên, khích lệ, mà còn là niềm tin và mong ước của Người trước lúc đi xa. Người cũng dự liệu rằng, chỉ có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chỉ có phát triển kinh tế, văn hóa một cách mạnh mẽ mới có thể làm cho dân giàu, nước mạnh. Đấu tranh giành cho được độc lập, tự do đã khó, nhưng làm cho những giá trị của độc lập, tự do có ý nghĩa thực sự, biến những giá trị tinh thần - chính trị thành những giá trị vật chất cụ thể lại còn khó khăn hơn nhiều. Vì vậy, giành được độc lập rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm vững chắc nhất cho nền độc lập dân tộc.
Năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Người đi vào cõi vĩnh hằng nhưng tên tuổi, sự nghiệp vĩ đại cùng với tấm lòng nhân ái của Người vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử mới của Đảng ta. Suy ngẫm và cảm nhận nhiều điều sâu sắc từ bản Di chúc thiêng liêng của Người, mỗi công dân Việt Nam, đặc biệt là mỗi cán bộ, đảng viên luôn nguyện ra sức phấn đấu, thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người. Đó là phương cách tốt nhất để thể hiện lòng biết ơn và thực hiện lời hứa thiêng liêng với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Trích đăng từ Tạp chí Cộng sản của Đảng phát hành tháng 8 năm 2019.