- ĐỊNH NGHĨA BÉO PHÌ
Béo phì là tình trạng tích luỹ mỡ trong cơ thể quá mức cần thiết gây tổn hại cho sức khoẻ của con người.
- NGUYÊN NHÂN BÉO PHÌ
- 2.1.Nguyên nhân trực tiếp
Các yếu tố tác động gây mất cân bằng trong cán cân năng lượng còn được gây ra bởi các yếu tố môi trường từ mức độ gia đình (ví dụ thói quen ăn uống của gia đình, thực phẩm tại gia đình…), đến các yếu tố môi trường ở mức độ cộng đồng (ví dụ như các hàng quán thức ăn nhanh, thiếu lề đường cho người đi bộ, công viên, nhà thi đấu thể thao trong khu vực sống…) cho đến các yếu tố môi trường vĩ mô (ví dụ như chính sách quảng cáo thực phẩm trên truyền hình, quy định về thực phẩm trong công nghiệp…).
- HẬU QUẢ CỦA BÉO PHÌ
- Về mặc sức khoẻ: Béo phì ở trẻ em thường đưa đến các bệnh lý: rối loạn mỡ máu, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ, dậy thì sớm, bệnh lý túi mật, tăng huyết áp, ngưng thở khi ngủ, trầm cảm, giả u não (gây nhức đầu), hội chứng giảm thông khí và biến chứng ở khớp (đau khớp hông, khớp gối, giới hạn vận động) và một số loại ung thư.
- Về mặc cảm xúc: trẻ có khuynh hướng mắc chứng tự ti, không hài lòng với hình dáng cơ thể.
- Về mặc xã hội: trẻ sẽ bị kỳ thị, ấn tượng xấu, chọc ghẹo, bắt nạt.
- BIỂU HIỆN CỦA BÉO PHÌ
Béo phì được chẩn đoán dựa trên chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index: BMI) chỉ số này được tính bằng công thức cân nặng tính bằng kg chia cho chiều cao bình phương tính bằng mét. Vì cơ thể trẻ thay đổi theo các giai đoạn phát triển của từng lứa tuổi nên chỉ số này cũng thay đổi theo tuổi. Để chẩn đoán béo phì ở mức độ cộng đồng chúng ta sẽ sử dụng bảng chỉ số khối cơ thể (BMI ) theo tuổi và theo giới để xác định xem một trẻ có thừa cân hay béo phì hay không (xem phần phụ lục).
Trẻ trên 5 tuổi bị thừa cân khi có chỉ số khối cơ thể (BMI)> +1SD, và bị béo phì khi có chỉ số khối cơ thể (BMI)> +2SD
Ngoài chỉ số khối cơ thể ở mức béo phì, biểu hiện thường gặp của béo phì là trẻ tăng cân nhanh, có nhiều ngấn mỡ ở bụng, cổ, gáy, sạm da vùng nếp gấp ( nách, gáy, bẹn), ngáy khi ngủ.
- PHÒNG NGỪA BÉO PHÌ
Tuy trẻ em lứa tuổi tiểu học có tỉ lệ béo phì cao nhưng việc can thiệp phòng và điều trị béo phì ở lứa tuổi này lại có những thuận lợi nhất định do trẻ đủ lớn để hiểu các lời khuyên của thầy cô và cha mẹ, đồng thời lại còn nhỏ để cha mẹ, thầy cô có thể giáo dục uốn nắn và kiểm soát các hành vi ăn uống và vận động của trẻ. Đây là lý do hiện nay các nhà khoa học về dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng khuyến nghị đưa can thiệp dinh dưỡng vận động vào trường học từ cấp tiểu học.
Các vấn đề chính trong thực hành phòng chống béo phì ở trẻ em lứa tuổi học đường bao gồm:
- 5.1. Chế độ dinh dưỡng
Theo dõi cân nặng định kỳ tại nhà và tại trường học giúp đạt mục tiêu giữ cân hay giảm cân đã được bác sĩ chỉ định.
- 5.4. Làm gương cho trẻ:
Cha mẹ hay thành viên khác trong gia đình, giáo viên phải cùng thực hiện hành vi ăn uống và vận động thể lực lành mạnh để làm gương cho trẻ.
- ĐIỀU TRỊ BÉO PHÌ TRẺ EM Ở CƠ SỞ Y TẾ
Trẻ bị béo phì, đặc biệt là khi đã có biến chứng cần được điều trị tại các cơ sở y tế chuyên khoa. Khi đến cơ sở y tế khám và điều trị béo phì, trẻ sẽ được hẹn tái khám nhiều lần trong thời gian dài (ít nhất là 6 tháng) chứ không thể đạt kết quả qua một hay hai lần khám bệnh được.
Một trong những mục tiêu chính của việc điều trị giảm cân ở trẻ em là giáo dục kiến thức và hành vi tốt cho trẻ về phương diện ăn uống và vận động.
Giảm cân nặng sẽ được cân nhắc ở những trẻ lớn, có biến chứng, béo phì nặng.
Cha mẹ hoặc người chăm sóc chính phải tham gia vào quá trình điều trị béo phì của con mình thì sẽ đạt hiệu quả tốt hơn.
- MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠI TRƯỜNG